Kho học liệu

Phân tích truyện ngắn Chí Phèo
Phân tích truyện ngắn Chí Phèo
“Khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang sách của Nam Cao, người ta mới thấy đây là hiện thân đầy đủ nhất cho những gì gọi là cùng khổ của người dân cày trong một xã hội thuộc địa: bị dày đạp, cào xé, hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình.” (Nguyễn Đăng Mạnh). Người ta vẫn coi Chí Phèo như một hiện tượng lạ của văn học và đời sống, một sáng tạo đặc biệt của Nam Cao mà qua đó, bao lớp hiện thực được lật dở, bao tầng tư tưởng được cày xới.“Chí Phèo” thật sự đã đưa tên tuổi của Trần Hữu Tri chính thức trở thành Nam Cao. Vốn là một nhà văn hiện thực đến sau, bước vào làng văn khi mà mảnh đất về người nông dân đã được lật xới nhiều lần, Nam Cao vẫn cày được những đường cày thật đẹp và nâng tác phẩm của mình trở thành tuyệt tác. Tôi cho rằng “Chí Phèo” là tác phẩm Nam Cao viết hay và sâu sắc nhất về người nông dân bởi tính hiện thực và tư tưởng nhà văn gửi trong đó.Đi theo cách nhà văn muốn dẫn dắt người đọc, Nam Cao đã đẩy Chí Phèo ra giữa sân khấu cuộc đời với trạng thái say và chửi – một trạng thái đầy ấn tượng và ám ảnh: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng vậy, cứ rượu xong là hắn chửi.” Hắn – cái cách mà Nam Cao gọi Chí Phèo – là một kẻ đang đằm mình trong men rượu và đối thoại với đời bằng tiếng chửi. Tiếng chửi có lớp có lang, có gần có xa, từ chửi trời, hắn chửi đời, rồi chửi sang cả dân làng Vũ Đại, chửi đứa nào không chửi nhau với hắn, và sau cùng là chửi “đứa chết mẹ nào đã đẻ ra hắn”. Tiếng chửi như đã trở thành quy luật sống của một kẻ say, Nam Cao đã cho ta thấy trạng thái tồn tại cụ thể nhất của nhân vật, thấy được chất lưu manh trong con người hắn, và phần nào thấy được bi kịch bị cự tuyệt của Chí Phèo. Trong tiếng chửi dường như có sự cô độc. Dân làng Vũ Đại không ai ra điều, đáp lại hắn chỉ là tiếng sủa của ba con chó dữ. Chí Phèo bị gạch tên ra khỏi xã hội chăng? Vì đâu mà hắn bị cả xã hội ghê sợ và lảng tránh? Những câu hỏi gợi mở Nam Cao đặt ra từ đầu truyện đã cho ta lần bước tìm hiểu về nhân vật…Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí “chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”. Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã và không sao gượng dậy được. Đó là lúc Chí bị Bá Kiến đẩy vào tù chỉ vì một cơn ghen bạo chúa, bi kịch lưu manh hóa cũng bắt đầu từ đó.Chí ra tù, mang theo sự biến đổi nhân hình và nhân tính đến méo mó dị dạng. Từ một anh canh điền khỏe mạnh, Chí trở nên là một đứa “đặc như thằng săng đá”, với “cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng, cái mặt câng câng, con mắt gườm gườm. Người ta tưởng như một con quỷ dữ về làng. Chuỗi ngày sau khi ra tù, hắn ngụp lặn trong trạng thái tinh thần say miên man. Ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say. Đau đớn hơn, sự tha hóa không chỉ hiện lên thành hình, nó còn đang dần gặm nhấm từ bên trong khi mà Chí đã tự mình bán rẻ linh hồn cho Bá Kiến. Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm được quy luật của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được. Phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Vậy là chỉ sau những lời mời dụ ngọt nhạt của tên gian hùng lọc lõi như Bá Kiến, Chí đã trở thành một tay đi đòi nợ thuê, chém giết thuê. “Hắn đâu biết hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao người dân lương thiện”. Chí Phèo đã thực hiện đúng mưu đồ của cha con nhà Bá Kiến: “Lấy thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò”. Chất Người trong hắn dường như đã cạn kiệt, linh hồn quỷ xâm chiếm và tàn phá hắn.Nhưng cũng chính từ bi kịch ấy mà ta nhìn thấy bản chất, bộ mặt của cả một xã hội – một xã hội vô nhân với những những con người cạn sạch tính người, một xã hội mà Vũ Trọng Phụng gọi là “chó đểu”. Ở đó, có những tên cường hào ác bá như Bá Kiến nắm mọi quyền lực, có thể tuyệt đường sống của người dân lương thiện bất cứ lúc nào, có nhà tù thực dân bắt vào một người lương thiện và thả ra một con quỷ dữ, có những người như dân làng Vũ Đại khước từ sự dung nạp và chấp nhận một người như Chí Phèo.Tưởng như Chí đã trượt dài và lún sâu trong tấn bi kịch đời mình, nhưng Nam Cao vẫn đủ tin tưởng và trái tim nhà văn vẫn rất nhân đạo khi “cố tìm mà hiểu” chất Người trong tâm hồn của một kẻ mà phần Con đã chiếm thế. Đó là lúc Chí gặp Thị Nở – một người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn của làng Vũ Đại. Qua cái đêm ăn nằm như vợ chồng với thị, Chí tỉnh dậy và bao nhiêu sự hồi sinh đã được đánh thức. Hồi sinh ý thức về không gian, thời gian, về tình cảm và tiếng nói con người. Lần đầu tiên trong cuộc đời, Chí nghe thấy “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá. Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”. Cũng lần đầu, hắn ý thức được về tuổi tác của mình, về hiện tại “đã già mà vẫn còn cô độc”, về quá khứ với ước mơ lành thiện khi xưa, về tương lai với “đói rét, ốm đau và cô độc”. Con người ấy lần đầu có những cảm giác rất người, thức dậy cả về lương tri và lương tâm. Hắn biết lo, biết sợ, biết xúc động rưng rưng trước bát cháo hành tỏa nồng hơi ấm, biết ăn năn hối cải về tội ác của mình. Chính bàn tay của một người phụ nữ có dòng dõi mả hủi đã cứu đỡ hắn ra khỏi bờ vực tha hóa, để rồi không chỉ bộc lộ bản chất lương thiện vẫn luôn sẵn có trong con người, Chí Phèo còn trỗi dậy cả khao khát hoàn lương – trở về với xã hội loài người. Hắn tin rằng “Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”; “Thị có thể làm hòa với hắn sao mọi người lại không thể”. Chưa bao giờ, ước muốn được quay trở về làm người lương thiện lại mãnh liệt đến thế. Chính đôi mắt tinh tế và tấm lòng cảm thương của Nam Cao đã nhìn thấy mầm thiện của một con người vốn sống lương thiện, bị xã hội tàn ác vùi dập và đày đọaNhưng hiện thực vẫn là hiện thực. Ngòi bút trung thành với hiện thực của Nam Cao đã không chối bỏ một sự thật khác, rằng sống trong xã hội đầy rẫy những định kiến cổ hủ lạc hậu, con người không thể sống yên ổn theo đúng nghĩa. Một lần nữa, Chí Phèo rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người bởi định kiến của bà cô Thị Nở. Người đàn bà ấy đã dõng dạc tuyên bố rằng: “Trai làng đã chết hết hay sao mà đi đâm đầu lấy một thằng không cha, lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”. Cái loa của định kiến làng xã đã đưa bước chân Thị Nở đến từ chối thẳng thừng khát vọng hoàn lương và hạnh phúc của Chí Phèo. Giây phút nhân vật nửa tin nửa ngờ, nửa say nửa tỉnh, cố níu mà không thể giữ, bàng hoàng đến đau đớn đã biến Chí Phèo trở thành một kẻ thật sự tội nghiệp và đáng thương. Thị Nở bước đi, cánh cửa dẫn lối về xã hội loài người đóng sầm ngay trước mặt. Chí Phèo tìm đến tên kẻ thù lớn nhất của đời mình để trả thù và cũng kết liễu luôn đời mình. Chết là một kết cục bi thảm đau đớn, nhưng là lẽ tất yếu khi sống trong xã hội đầy nhơ nhuốc ấy. Không được dung nạp vào xã hội chung, Chí Phèo cũng không thể trở lại làm quỷ dữ, bởi lương tri và lương tâm đã trở về. Chí có chết mới là cách giải quyết tốt nhất, dù nó thật đau đớn. Đó là cái chết bảo toàn nhân phẩm, cái chết cảnh tỉnh cho cả một xã hội, để rồi ngày nay, tiếng hỏi “Ai cho tao lương thiện?” vẫn không ngừng vang vọng và ám ảnh.Để làm nên thành công của tác phẩm trong việc xây dựng nhân vật, không thể không kể đến nghệ thuật phân tích tâm lý bậc thầy của Nam Cao, nghệ thuật kết cấu linh hoạt theo dòng tâm lý và sử dụng những đoạn độc thoại, đối thoại phù hợp. Ngòi bút của Nam Cao đã điển hình hóa một kiểu người, một số phận trong xã hội, để ngày nay Chí Phèo vẫn là cái tên đầu tiên khi người ta nhớ về Nam Cao.
Phân tích truyện ngắn "Bà ốm"
Phân tích truyện ngắn "Bà ốm"
Truyện ngắn Bà ốm của Vũ Tú Nam là một tác phẩm giàu tình cảm, thể hiện tình yêu thương gia đình sâu sắc, đặc biệt là tình cảm thiêng liêng giữa bà và cháu. Qua câu chuyện giản dị nhưng đầy xúc động, tác giả đã làm nổi bật hình ảnh người bà nhân hậu, tận tụy và cô cháu gái ngoan ngoãn, hiếu thảo.Mở đầu truyện, tác giả đặt người đọc vào tình huống bà nội của Loan bị ốm phải nhập viện. Loan ban đầu nghĩ rằng bà chỉ bị cảm cúm nhẹ, nhưng rồi cô bé lo lắng khi thấy mẹ rơm rớm nước mắt, còn bố và bác đã đưa bà đi bệnh viện. Chính chi tiết này cho thấy sự lo âu của cả gia đình trước tình trạng sức khỏe của bà, đồng thời thể hiện tình cảm gắn bó khăng khít giữa các thế hệ trong gia đình.Loan yêu thương bà không chỉ bằng lời nói mà còn bằng hành động cụ thể. Khi nghe tin bà đã tỉnh lại, cô bé nhớ từng lời dặn dò của bà: chăm sóc đàn gà, nhốt riêng con gà ri, tưới cây cối trong vườn. Những việc làm nhỏ bé ấy thể hiện sự ngoan ngoãn, chu đáo và tấm lòng kính yêu của Loan đối với bà. Dù còn nhỏ, Loan đã biết quan tâm, chia sẻ trách nhiệm với bà, góp phần chăm sóc gia đình khi bà vắng nhà.Một chi tiết đặc biệt cảm động là khi Loan chuẩn bị mười quả trứng gà tươi nhất gửi biếu bà mà không nói gì trong thư. Hành động này cho thấy sự tinh tế, biết nghĩ cho người khác của cô bé. Loan không muốn bà cảm thấy mình mang ơn, mà chỉ mong bà yên tâm chữa bệnh. Đây là một nét đẹp đáng quý trong tâm hồn trẻ thơ nhưng đầy sự chín chắn và lòng hiếu thảo.Khoảnh khắc bà trở về nhà là một trong những điểm nhấn xúc động nhất của truyện. Loan ôm chầm lấy bà, khóc òa lên vì hạnh phúc. Bà nội tuy còn xanh xao, phải chống gậy, nhưng vẫn cười hiền hậu và yêu thương cháu hết mực. Khi bà mở bị quà, chia lại cho Loan hai quả cam, sáu quả chuối và năm quả trứng gà, cô bé hiểu rằng bà đã nhịn ăn để dành phần quà cho cháu. Giây phút đó khiến Loan xúc động đến mức dù miệng cười nhưng nước mắt vẫn rơi. Đây chính là tình cảm gia đình thiêng liêng, sự hi sinh và yêu thương vô điều kiện giữa những người thân trong gia đình.Ngôn ngữ truyện nhẹ nhàng, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc. Những câu văn miêu tả về cảnh vật khi vắng bà như "đàn gà cứ ngơ ngác", "cây cối ngoài vườn cũng nhớ bà" đã nhân hóa vạn vật, thể hiện sự trống trải, thiếu vắng hơi ấm của bà trong gia đình. Giọng văn trong sáng, chân thực, phù hợp với tâm hồn ngây thơ của trẻ thơ nhưng lại chất chứa những thông điệp sâu sắc về tình cảm gia đình.Truyện ngắn Bà ốm không chỉ kể về một câu chuyện đời thường mà còn gửi gắm thông điệp nhân văn: tình yêu thương giữa những người thân trong gia đình là điều vô giá. Qua hình ảnh bà nội và Loan, tác giả khắc họa tình bà cháu đầy yêu thương, sự hi sinh thầm lặng và lòng biết ơn sâu sắc. Tác phẩm nhắc nhở mỗi chúng ta hãy luôn trân trọng, quan tâm và yêu thương những người thân yêu khi còn có thể.
Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ
Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ
Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam một cách dễ hiểu và đạt được điểm cao.HAI ĐỨA TRẺ – Thạch LamTác giả – Tác phẩm:Tác giả:Thạch Lam (1910 – 1942), là một nhà văn xuất sắc, thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn. Ông tên thật là Nguyễn Tường Vinh (NguyễnTường Lân) sinh tại Hà Nội, thuở nhỏ sống ở quê ngoại: phố huyện Cẩm Giàng – Hải Dương. Đó là một phố huyện nghèo có chợ, ga xếp đêm đêm có một chuyến tàu chạy qua đã nhiềuđêm trong tâm trí Thạch Lam trở thành không gian nghệ thuật trở đi trở lại trong nhiều sáng tác của ông. Chính đặc điểm con người đã làm nên giá trị nhân đạo và ngòi bút nhạy cảm trước nhữngbiến thái tinh vi của tâm hồn con người trong văn Thạch Lam.Ông là người người đôn hậu, tinh tế. Quan điểm sáng tác lành mạnh, tiến bộ. Có biệt tài về truyệnngắn, có phongcách nghệ thuậtđộc đáo. Truyệnkhông có chuyện,chủ yếu khai thác thế giới nội tâm với những xúc cảm mong manh, mơ hồ. Mỗi truyện như một bài thơ trữ tình đượm buồn, giọngđiệu điềm đạm nhưng chứa đựng biết bao tình cảm mến yêu chân thành và sự nhạy cảm của tác giả trước nhữngbiến thái của cảnh vật và lòng người. Văn phong trong sáng, giản dị, thâm trầm, sâu sắc.Tác phẩm chính:+ Các tập truyện ngắn: “Gió đầu mùa” (1937),“Nắng trong vườn” (1938), “Sợi tóc”(1942).+ Tiểu thuyết: “Ngày mới” (1939)+ Tập tiểu luận: “Theo dòng”(1941+ Tùy bút: “Hà Nội băm sáu phố phường” 1943)Tác phẩm:Xuất xứ: In trong tập “Nắngtrong vườn” (1938)Vị trí: Là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật truyện ngắn của Thạch Lam, có sự hòa quyện hai yếu tố hiện thực và lãng mạn trữ tình.Chủ đề: Bức tranh phố huyện nghèo trước cách mạng táng Tám từ lúc chiều muộn đến đêm khuya qua cái nhìn và tâm trạng của nhân vật LiênBố cục: Gồm 3 phần.+ Phần 1: (Từ đầu đến “tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng): Tâm trạng của Liên trước bức tranh phố huyện lúc chiều muộn.+ Phần 2: (Tiếp theo đến “chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèokhổ hằng ngày của họ.): Tâm trạng của Liên trước bức tranh phố huyện khi đêm về.+ Phần 3 (cònlại): Tâm trạng của Liên trongcảnh đợi tàu lúcđêm khuya.Đọc – hiểu văn bản.Nói đến xu hướng văn học lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, chúng ta không thể không nói đến nhà văn Thạch Lam. Thạch Lam chỉ sáng tác trong khoảng 6 năm và mất khi mới 32 tuổi; nhưng ông đã có những đóng góp tích cực đối với nền văn xuôi Việt Nam trên con đường hiện đại hóa. Ông là cây bút truyện ngắn tài hoa xuất sắc, đã đem đến cho văn học một phong cách nghệ thuật truyện ngắn độc đáo với tư tưởng nhân đạo, sâu sắc mới mẻ.Điều đó được thể hiện qua truyện ngắn “Hai đứa trẻ”.Tâm trạng của Liên trước bức tranh phố huyện lúc chiều muộn.Trước cảnh chiềutàn:Bức tranh thiên nhiên phố huyện lúc chiều tàn được nhà văn khắc hoạ qua cảnh vật hiu hắt. Câu văn mở đầu dịu dàng như một lời thơ đã gợi ra không khí buồn vắng, hắt hiu của phố huyện nhỏ ở một nơi khuất nẻo.Cảnh vật:Âm thanh: Tiếng trống thu không… từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều câu văn chậm rãi → điểm nhịp thời gian. Tiếng ếch nhái kêu ran, tiếng muỗi vo ve – những âm thanh đặc trưng của làng quê lấy động tả tĩnh không khí vắng vẻ, đìu hiu, hoang vắng. ⇒ Miêu tả từ xa đến gần, nhỏ đần, tất cả như cộng hưởng tạo nên một bản nhạc đồng quê êm đềmMàusắc: Phương tây đỏ rực như lửa cháy. Đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. ⇒ Tính từ, so sánh màu sắc rực rỡ bùng cháy trước khi tàn lụi cảnh hoàng hôn sống động, báo hiệu một ngày đã qua.Đường nét: Dãy tre làng đen lại cắt hình rõ rệt trên nền trời (ánh hồng). Nghệ thuật tương phản giàu chất hội họa, hoàng hôn dần buông xuống.⇒ Bằng cảm hứng lãng mạn tinh tế, câu văn như câu thơ (chiều,chiều rồi…), thanhbằng, nhịp chậm, điệp từ “chiều”, từ láy, nghệ thuật so sánh tinh tế kết hợp hài hoà các chi tiết miêu tả âm thanh, màu sắc, đường nét, tác giả đã gợi lên bước đi của thời gian từ, đồng thời gợi lên một bức tranh thiên nhiên thôn dã trong cái giờ khắc của ngày tàn: đẹp, êm đềm, thơ mộng, đượm buồn mang cốt cách Việt Nam Thể hiện sự nâng niu trân trọng của Thạch Lam với những gì là hồn xưa của dân tộc.Tâm trạng của Liên:Tư thế ngồi yên lặng, trầm tư suy nghĩ. Đôi mắt ngập đầy bóng tối, nổi buồn trào dâng. Tâm hồn ngây thơ mà buồn thấm thía. Không hiểu sao nhưng thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc ngày tàn. ⇒ Từ tư thế, dáng vẻ đến tâm hồn cho thấy tâm trạngcủa Liên: buồntrước bước đi của thời gian, trước cảnh thiên nhiên vắng lặng đìu hiu. Tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên.Trước cảnh chợ tàn:Cảnh một ngày chợ phiên: Âm thanh phiên chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu, người về hết, tiếng ồn ào cũng mất chỉ còn sự trống vắng, quạnh hiu. Hình ảnh tàn tạ, trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị,lá nhãn, lá mía nhữngphế thải của một phiên chợ quê nghèo. Một mùi âm ẩm, hơi nóng ban ngày, mùi cát bụi. Cảm nhận bằng khứu giác mùi vị của đất quê hương. Phải chăng đó là mùi vị của nghèo khổ, lầm than, cơ cực?⇒ Bằng ngòi bút tả thực, cảm nhận bằng nhiều giác quan: thị giác,thính giác, khứu giác, và bằng cả tâm hồn tinh tế nhạy cảm, những chi tiết giàu sức gợi, cảnh chợ tàn gợi bức tranh sinh hoạt của phố huyện nghèo nàn, xơ xác, tiêu điều.Những đứa trẻ tâm hồn ngây thơ trong sáng đáng lẽ phải được nuôi dưỡng, được đến trường. Nhưng ở đây chúng phải tự kiếm sống, phải sớm từ giã tuổi thơ thật tội nghiệp, đáng thương. Ta thấy ẩn sau những hình ảnh đó là tấm lòng xót xa, đầy thương cảm của Thạch Lam.Tâm trạng của Liên:Cảm nhận mùi vị quen thuộc. Tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương. ⇒ Tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, gắn bó với quê hương.Trước những kiếp người tàn:Liên và An: Trước ở Hà Nội, từ khi bố mất việc, hai chị em về quê. Mẹ giao trông coi một gian hàng tạp hoá nhỏ xíu. Chiều nào cũng dọn hàng, đếm hàng, tính tiền, ngồi trên cái chõng sắp gãy nhìn cảnh và người phố huyện. Ngày chợ phiên mà chỉ bán được 2,5 bánh xà phòng, một cút rượu ti nhỏ. ⇒ Gia cảnh khó khăn, sa sút, mức sống eo hẹp.Những đứa trẻ con nhà nghèo: cúi lom khom trên mặt đất, đi lại tìm tòi, nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, cái gì có thể dùng được của những người bán hàng để lại đáng thương, tội nghiệp.Mẹ con chị Tý: Ngày mò cua bắt tép. Tối lại dọn hàngnước, chả kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng, từ chập tối cho đến đêm. Cuộc sống cầm cự, cầm chừng trong vô vọng.Cụ Thi: hơi điên, xuất hiện với tiếng cười khanh khách, uống một hơi cạn sạch cút rượu ti rồi lảo đảo đi vào bóng tối tàn tạ cả thể xác và tinh thần.⇒ Bằng ngòi bút tả thực, qua các chi tiết: cử chỉ, hành động chậm chạp; đối thoại ít, rời rạc, giọng thấp như tiếng thở dài, bao quanh họ là những đồ vật tàn,.. tác giả đã khắc hoạ hình ảnhnhững con ngườinhỏ bé, từ trẻ đến giàđều nghèo khổ, chật vật, tàn tạ. Qua đó, tác giả thể hiện niềm xót thương đối với cuộc sống của những người dân phố huyện trước Cách mạng tháng Tám: đó là tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác giả.Tâm trạngcủa Liên:Tâm trạng của Liên trước bức tranh phố huyệnlúc đêm khuya:Với những đứa trẻ con nhà nghèo: động lòngthương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó. Với mẹ con chị Tí: Ân cần hỏi han. Với cụ Thi: lẳng lặng rót một cút rượu ti đầy, lòng hơi run sợ, mong cụ chóng đi. ⇒ Liên có tâm hồn nhạy cảm, nhân hậu, giàu lòng trắc ẩn, yêu thương con người – nét đẹp tâm hồn mà nhà văn nâng niu, trân trọng.Hình ảnh những con người hiện ra qua con mắt của Liên như một vòng đời của phố huyện. Nếu cuộc sống không có gì thay đối thì tương lai của Liên và An sẽ ra sao? Hay chỉ là sựtàn tạ cả về thể xác và tinh thần? Vẽ ra tương quan giữa hai đứa trẻ trên một thế giớigià nua như hai mầm cây non trên một mảnh đất khô cằn bạc phếch, liệu chúng có thể trưởng thành, khoẻ mạnh hay chúng sẽ sớm tàn tạ, héo úa! Đây chính là tấm lòng trắc ẩn mênh mông, một sắc thái riêng trong tư tưởng nhân đạo của Thạch Lam.Nghệ thuật kết hợp yếu tố hiện thực với yếu tố lãng mạn trữ tình; câu văn xuôi như câu thơ, khéo kết hợp các chi tiết, nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật tinh tế. Thạch Lam đã phần nào phản ánh bức tranh hiện thực đời sống của người dân. Tác giả thể hiện một cách nhẹ nhàng mà thấm thía niềm xót thương với những kiếp người nhỏ bé, sống nghèo khổ, tàn tạ ở một phố huyệnnhỏ trước Cách mạng tháng Tám, trân trọng nhữngnét đẹp tâm hồn của họ. Đó là giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của đoạn trích.a/ Khung cảnh và con người:* Cảnh:Bầu trời có hàng ngàn ngôi sao ganh nhau… Hoa bàng khẽ rụng… Thoảng qua gió mát→ Đẹp, êm đềm, tĩnh lặng – một đêm hạ êm như nhung.Mặt đất ngập chìm trong bóng tối. Đường phố và các ngõ chứa đầy bóng tối (…)⇒ Hình ảnh tương phản đối lập. Bóng tối bao trùm tất cả, tràn ngập trong tác phẩm,tạonên một bức tranh u tối, một không gian tù đọng, gợi cảm giácngột ngạt.* Nhịp sống của những người dân:+ Đêm về bác phở Siêu xuất hiện.+ Trong bóng tối gia đình bác Sẩm kiếm ăn.⇒ Lặp đi lặp lại đơn diệu, buồntẻ với những động tác quen thuộc,những suy nghĩ mong đợi như mọi ngày. Họ mong đợi “một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày”b/ Tâm trạng của Liên:Liên và An lặng lẽ ngắm các vì sao, lặng lẽ quan sát những gì diễn ra ở phố huyện và xót xa cảm thông, chia sẻ với những kiếp người nhỏ nhoi sống lay lắt trong bóng tối của cơ cực đói nghèo, tù đọng trong bóng tối của họ.Nhớ lại những tháng ngày tươi đẹp ở Hà Nội.Phố huyện lúc chuyến tàu đêm đi qua:⇒ Nỗi buồn cùng bóng tối đã tràn ngập trong đôi mắt Liên, nhưng trong tâm hồn cô bé vẫn dành chỗ cho một mong ước, một sự đợi chờ trong đêm.Bóng tối được miêu tả nhiều trạng thái khác nhau, có mặt suốt từ đầu đến cuối tác phẩm. Gợi cho người đọc thấy một kiếp sống bế tắc, quẩn quanh của người dân phố huyện nói riêng và nhân dân trướccách mạng tháng Tám nói chung. Đó là biểu tượng của những tâm trạng vô vọng, nỗi u hoài trong tâm thức của một kiếp người.Biểu tượng ngọn đèn dầu nơi phố huyện tưởng chừng như đối lập với bóng tối nhưng không phải, nó càng làm cho bóng tối sâu thẳm hơn. Trong tác phẩm, ngọn đèn dầu được nhắc hơn10 lần. Tất cả không đủ chiếusáng, không đủ sức phá tan màn đêm, mà ngược lại nó càng làm cho đêm tối trở nên mênh mông hơn, càng ngợi sự tàn tạ, hắt hiu, buồn đến nao lòng.Ngọn đèn dầu là biểu tượng về kiếp sống nhỏ nhoi, vô danh vô nghĩa, lay lắt. Một kiếp sống leo lét mỏi mòn trong đêm tối mênh mông của xã hội cũ, không hạnh phúc, không tương lai, cuộc sống như cát bụi. Cuộcsống ấy cứ ngày càng một đè nặng lên đôi vai mỗi con người nơi phố huyện. Cả một bức tranh đen tối. Những hột sáng của ngọn đèn dầu hắt ra giống như những lỗ thủng trên một bức tranh toàn màu đen.* Hình ảnh chuyến tàu:Hình ảnh con tàu lặp 10 lần trong tác phẩm. Chuyến tàu đêm qua phố huyện là niềm vui duynhất trong ngày của chị em Liên. Nó mang đến một thế giới khác, ánh sáng xa lạ, âm thanh nao nức, tiếng ồn ào của khách…khác và đối lập với nhịp điệu buồn tẻ nơi phố huyện.Chuyến tàu ở Hà Nội về, chở đầy ký ức tuổi thơ của hai chị em Liên, mang theo một thứ ánh sáng duy nhất, như con thoi xuyên thủng màn đêm, dù chỉ trong chốc lát cũng đủ xua tan cái ánh sáng mờ ảo nơi phố huyện.Việc chờ tàu trở thành một nhu cầu như cơm ăn nước uống hàng ngày của chị em Liên. Liên chờ tàu không phải vìmục đích tầm thường là đợi khách mua hàng mà vì mục đích khác. Liên mong được nhìn thấy những gì khác với cuộc đời mà hai chị em Liên đang sống. Con tàu mang đến một kỷ niệm, đánh thức hồi ức về kỷ niệm mà chị em cô đã từng được sống. Chuyến tàu giúp Liên nhìn thầy rõ hơn sự ngưng đọng tù túngcủa cuộc sống phủ đầy bóng tối hèn mọn, nghèo nàn của cuộc đời mình⇒ Liên là người giàu lòng thương yêu, hiếu thảo và đảm đang. Cô là người duy nhất trong phố huyện biết ước mơ có ý thức về cuộc sống. Cô mỏi mòn trong chờ đợi.* Y ́ nghĩa biểutượng của chuyến tàu đêm:Hình ảnh con tàu lặp 10 lần trong tác phẩm. Đó là biểu tượng của một thế giới thật đáng sống với sự giàu sang và sự rực rỡ ánh sáng. Nó đối lập với cuộc sống mòn mỏi, nghèo nàn, tối tăm và quẩn quanh với người dân phố huyện.Qua tâm trạng của Liên tác giả muốn lay tỉnh nhữngngười đang buồn chán, sống quẩn quanh, lam lũ và hướng họ đến một tương lai tốt đẹp hơn. Đó là giá trị nhân bản của truyện ngắn này. Đó là biểu tượng cho một cuộc sống sôi động, nhộn nhịp, vui vẻ, hiện đại. Dù chỉ trong giây lát nó cũng đưa cả phố huyện thoát ra khỏi cuộc sống tù đọng, u ẩn, bế tắc.