Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam một cách dễ hiểu và đạt được điểm cao.
HAI ĐỨA TRẺ – Thạch Lam
+ Các tập truyện ngắn: “Gió đầu mùa” (1937),“Nắng trong vườn” (1938), “Sợi tóc”
(1942).
+ Tiểu thuyết: “Ngày mới” (1939)
+ Tập tiểu luận: “Theo dòng”(1941
+ Tùy bút: “Hà Nội băm sáu phố phường” 1943)
+ Phần 1: (Từ đầu đến “tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng): Tâm trạng của Liên trước bức tranh phố huyện lúc chiều muộn.
+ Phần 2: (Tiếp theo đến “chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèokhổ hằng ngày của họ.): Tâm trạng của Liên trước bức tranh phố huyện khi đêm về.
+ Phần 3 (cònlại): Tâm trạng của Liên trongcảnh đợi tàu lúcđêm khuya.
Nói đến xu hướng văn học lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, chúng ta không thể không nói đến nhà văn Thạch Lam. Thạch Lam chỉ sáng tác trong khoảng 6 năm và mất khi mới 32 tuổi; nhưng ông đã có những đóng góp tích cực đối với nền văn xuôi Việt Nam trên con đường hiện đại hóa. Ông là cây bút truyện ngắn tài hoa xuất sắc, đã đem đến cho văn học một phong cách nghệ thuật truyện ngắn độc đáo với tư tưởng nhân đạo, sâu sắc mới mẻ.Điều đó được thể hiện qua truyện ngắn “Hai đứa trẻ”.
Bức tranh thiên nhiên phố huyện lúc chiều tàn được nhà văn khắc hoạ qua cảnh vật hiu hắt. Câu văn mở đầu dịu dàng như một lời thơ đã gợi ra không khí buồn vắng, hắt hiu của phố huyện nhỏ ở một nơi khuất nẻo.
đặc trưng của làng quê lấy động tả tĩnh không khí vắng vẻ, đìu hiu, hoang vắng. ⇒ Miêu tả từ xa đến gần, nhỏ đần, tất cả như cộng hưởng tạo nên một bản nhạc đồng quê êm đềm
⇒ Bằng cảm hứng lãng mạn tinh tế, câu văn như câu thơ (chiều,chiều rồi…), thanhbằng, nhịp chậm, điệp từ “chiều”, từ láy, nghệ thuật so sánh tinh tế kết hợp hài hoà các chi tiết miêu tả âm thanh, màu sắc, đường nét, tác giả đã gợi lên bước đi của thời gian từ, đồng thời gợi lên một bức tranh thiên nhiên thôn dã trong cái giờ khắc của ngày tàn: đẹp, êm đềm, thơ mộng, đượm buồn mang cốt cách Việt Nam Thể hiện sự nâng niu trân trọng của Thạch Lam với những gì là hồn xưa của dân tộc.
Tư thế ngồi yên lặng, trầm tư suy nghĩ. Đôi mắt ngập đầy bóng tối, nổi buồn trào dâng. Tâm hồn ngây thơ mà buồn thấm thía. Không hiểu sao nhưng thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc ngày tàn. ⇒ Từ tư thế, dáng vẻ đến tâm hồn cho thấy tâm trạngcủa Liên: buồntrước bước đi của thời gian, trước cảnh thiên nhiên vắng lặng đìu hiu. Tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên.
⇒ Bằng ngòi bút tả thực, cảm nhận bằng nhiều giác quan: thị giác,thính giác, khứu giác, và bằng cả tâm hồn tinh tế nhạy cảm, những chi tiết giàu sức gợi, cảnh chợ tàn gợi bức tranh sinh hoạt của phố huyện nghèo nàn, xơ xác, tiêu điều.
Những đứa trẻ tâm hồn ngây thơ trong sáng đáng lẽ phải được nuôi dưỡng, được đến trường. Nhưng ở đây chúng phải tự kiếm sống, phải sớm từ giã tuổi thơ thật tội nghiệp, đáng thương. Ta thấy ẩn sau những hình ảnh đó là tấm lòng xót xa, đầy thương cảm của Thạch Lam.
⇒ Bằng ngòi bút tả thực, qua các chi tiết: cử chỉ, hành động chậm chạp; đối thoại ít, rời rạc, giọng thấp như tiếng thở dài, bao quanh họ là những đồ vật tàn,.. tác giả đã khắc hoạ hình ảnhnhững con ngườinhỏ bé, từ trẻ đến giàđều nghèo khổ, chật vật, tàn tạ. Qua đó, tác giả thể
hiện niềm xót thương đối với cuộc sống của những người dân phố huyện trước Cách mạng tháng Tám: đó là tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác giả.
Với những đứa trẻ con nhà nghèo: động lòngthương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó. Với mẹ con chị Tí: Ân cần hỏi han. Với cụ Thi: lẳng lặng rót một cút rượu ti đầy, lòng hơi run sợ, mong cụ chóng đi. ⇒ Liên có tâm hồn nhạy cảm, nhân hậu, giàu lòng trắc ẩn, yêu thương con người – nét đẹp tâm hồn mà nhà văn nâng niu, trân trọng.
Hình ảnh những con người hiện ra qua con mắt của Liên như một vòng đời của phố huyện. Nếu cuộc sống không có gì thay đối thì tương lai của Liên và An sẽ ra sao? Hay chỉ là sựtàn tạ cả về thể xác và tinh thần? Vẽ ra tương quan giữa hai đứa trẻ trên một thế giớigià nua như hai mầm cây non trên một mảnh đất khô cằn bạc phếch, liệu chúng có thể trưởng thành, khoẻ mạnh hay chúng sẽ sớm tàn tạ, héo úa! Đây chính là tấm lòng trắc ẩn mênh mông, một sắc thái riêng trong tư tưởng nhân đạo của Thạch Lam.
Nghệ thuật kết hợp yếu tố hiện thực với yếu tố lãng mạn trữ tình; câu văn xuôi như câu thơ, khéo kết hợp các chi tiết, nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật tinh tế. Thạch Lam đã phần nào phản ánh bức tranh hiện thực đời sống của người dân. Tác giả thể hiện một cách nhẹ nhàng mà thấm thía niềm xót thương với những kiếp người nhỏ bé, sống nghèo khổ, tàn tạ ở một phố huyệnnhỏ trước Cách mạng tháng Tám, trân trọng nhữngnét đẹp tâm hồn của họ. Đó là giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của đoạn trích.
* Cảnh:
Bầu trời có hàng ngàn ngôi sao ganh nhau… Hoa bàng khẽ rụng… Thoảng qua gió mát
→ Đẹp, êm đềm, tĩnh lặng – một đêm hạ êm như nhung.
Mặt đất ngập chìm trong bóng tối. Đường phố và các ngõ chứa đầy bóng tối (…)
⇒ Hình ảnh tương phản đối lập. Bóng tối bao trùm tất cả, tràn ngập trong tác phẩm,tạo
nên một bức tranh u tối, một không gian tù đọng, gợi cảm giácngột ngạt.
* Nhịp sống của những người dân:
+ Đêm về bác phở Siêu xuất hiện.
+ Trong bóng tối gia đình bác Sẩm kiếm ăn.
⇒ Lặp đi lặp lại đơn diệu, buồntẻ với những động tác quen thuộc,những suy nghĩ mong đợi như mọi ngày. Họ mong đợi “một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày”
⇒ Nỗi buồn cùng bóng tối đã tràn ngập trong đôi mắt Liên, nhưng trong tâm hồn cô bé vẫn dành chỗ cho một mong ước, một sự đợi chờ trong đêm.
Bóng tối được miêu tả nhiều trạng thái khác nhau, có mặt suốt từ đầu đến cuối tác phẩm. Gợi cho người đọc thấy một kiếp sống bế tắc, quẩn quanh của người dân phố huyện nói riêng và nhân dân trướccách mạng tháng Tám nói chung. Đó là biểu tượng của những tâm trạng vô vọng, nỗi u hoài trong tâm thức của một kiếp người.
Biểu tượng ngọn đèn dầu nơi phố huyện tưởng chừng như đối lập với bóng tối nhưng không phải, nó càng làm cho bóng tối sâu thẳm hơn. Trong tác phẩm, ngọn đèn dầu được nhắc hơn10 lần. Tất cả không đủ chiếusáng, không đủ sức phá tan màn đêm, mà ngược lại nó càng làm cho đêm tối trở nên mênh mông hơn, càng ngợi sự tàn tạ, hắt hiu, buồn đến nao lòng.
Ngọn đèn dầu là biểu tượng về kiếp sống nhỏ nhoi, vô danh vô nghĩa, lay lắt. Một kiếp sống leo lét mỏi mòn trong đêm tối mênh mông của xã hội cũ, không hạnh phúc, không tương lai, cuộc sống như cát bụi. Cuộcsống ấy cứ ngày càng một đè nặng lên đôi vai mỗi con người
nơi phố huyện. Cả một bức tranh đen tối. Những hột sáng của ngọn đèn dầu hắt ra giống như những lỗ thủng trên một bức tranh toàn màu đen.
* Hình ảnh chuyến tàu:
Hình ảnh con tàu lặp 10 lần trong tác phẩm. Chuyến tàu đêm qua phố huyện là niềm vui duynhất trong ngày của chị em Liên. Nó mang đến một thế giới khác, ánh sáng xa lạ, âm thanh nao nức, tiếng ồn ào của khách…khác và đối lập với nhịp điệu buồn tẻ nơi phố huyện.
Chuyến tàu ở Hà Nội về, chở đầy ký ức tuổi thơ của hai chị em Liên, mang theo một thứ ánh sáng duy nhất, như con thoi xuyên thủng màn đêm, dù chỉ trong chốc lát cũng đủ xua tan cái ánh sáng mờ ảo nơi phố huyện.
Việc chờ tàu trở thành một nhu cầu như cơm ăn nước uống hàng ngày của chị em Liên. Liên chờ tàu không phải vìmục đích tầm thường là đợi khách mua hàng mà vì mục đích khác. Liên mong được nhìn thấy những gì khác với cuộc đời mà hai chị em Liên đang sống. Con tàu mang đến một kỷ niệm, đánh thức hồi ức về kỷ niệm mà chị em cô đã từng được sống. Chuyến tàu giúp Liên nhìn thầy rõ hơn sự ngưng đọng tù túngcủa cuộc sống phủ đầy bóng tối hèn mọn, nghèo nàn của cuộc đời mình
⇒ Liên là người giàu lòng thương yêu, hiếu thảo và đảm đang. Cô là người duy nhất trong phố huyện biết ước mơ có ý thức về cuộc sống. Cô mỏi mòn trong chờ đợi.
* Y ́ nghĩa biểutượng của chuyến tàu đêm: